Đặc điểm hình thái và nguyên nhân gây ra cắn chéo răng sau

Moyers định nghĩa Thuật ngữ cắn chéo răng sau dùng để chỉ một bất thường về tương quan răng theo chiều trong ngoài, lệch lạc răng theo mặt phẳng ngang. Bất thường có thể chỉ ở một răng hoặc nhóm răng phía sau, một hay hai bên, do xương, răng hay cả hai; cũng có thể xuất phát từ sự bất hài hòa giữa cung răng hàm trên hay hàm dưới.

Cắn chéo răng sau không tự điều chỉnh được ( trừ trường hợp điểm chạm sớm trong suốt thời kỳ răng sữa), thậm chí trở nên tồi tệ trong giai đoạn trong giai đoạn sau của hàm răng; vì thế cần phải can thiệp và phát hiện sớm. Bài viết này bàn luận về những đặc điểm và cách can thiệp cắn chéo răng sau, đặc biệt khi có sự lệch vị trí hàm dưới.

1. Đặc điểm về hình thái

Cắn chéo răng sau hay gặp ở hàm răng sữa và giai đoạn sớm trong thời kỳ răng hỗn hợp, với báo cáo cho thấy từ 7% đến 23%. Sự sai khớp cắn này thường đi cùng với việc hàm dưới thay đổi từ tư thế nghỉ đến lồng múi, gây ra lệch đường giữa, còn được gọi là khớp cắn cưỡng bức. Phổ biến là cắn chéo một bên, hàm dưới khi thực hiện chức năng sẽ di chuyển về bên bị bệnh.

Cắn chéo răng sau trong thời kỳ răng sữa và răng hỗn hợp giai đoạn sớm thường do hẹp nhẹ hàm trên hai bên, vì sự di chuyển chức năng về một phía nên sẽ trông như cắn chéo một bên. Theo Kutin và Hawes, có tới 8,4% cắn chéo chức năng trong giai đoạn răng sữa, nhưng giảm chỉ còn 7,2 % giai đoạn răng hỗn hợp; nguyên nhân có thể là do các điểm chạm sớm giới hạn sự trượt hàm dưới. Các báo cáo chỉ ra rằng cắn chéo răng sau hiếm khi tự điều chỉnh, việc trì hoãn điều trị và trạng thái hoạt động của các cơ vùng hàm mặt không cân xứng sẽ gây ra ảnh hưởng không tốt đến khớp thái dương hàm và sự phát triển sọ mặt.

Một vài nghiên cứu trên phim cắt lớp chỉ ra rằng vị trí bất cân xứng của lồi cầu trong ổ chảo ở trẻ em bị cắn chéo răng sau một bên sẽ được phục hồi sau khi can thiệp sớm.

Hẹp hàm trên, thường hiện diện ở trẻ em bị cắn chéo răng sau, sẽ dẫn đến thiếu chiều rộng cung răng trên, làm các răng trước chen chúc và đôi khi răng nanh mọc kẹt. Can thiệp sớm sẽ tạo ra môi trường thuận lợi để phát triển khớp cắn bình thường.

2. Nguyên nhân

Nguyên nhân của cắn chéo răng sau có nhiều giả thuyết. Bất thường này có thể kèm theo các bệnh lý di truyền hoặc bẩm sinh, chẳng hạn các bất thường phát triển bẩm sinh như khe hở vòm miệng hay sự phát triển bất cân xứng hàm dưới hoặc hàm trên, có thể trong một số bệnh lý như viêm khớp, bệnh to cực, loạn dưỡng cơ, thiểu sản hoặc quá sản lồi cầu và u sụn xương.

Cắn chéo răng sau được xem là yếu tố tại chỗ liên quan đến trường hợp răng sữa mất sớm hay tồn tại lâu trên cung hàm, chen chúc răng, bất thường trong mọc răng.

Hầu hết các nhà nghiên cứu đồng ý với một số nguyên nhân phổ biến của cắn chéo răng sau là:

  • Tật mút ngón tay hoặc ty giả.
  • Thở mũi kém.
  • Tật đẩy lưỡi.
  • Lưỡi ở vị trí thấp.
  • Kết hợp các yếu tố trên.

Nhìn chung, trong cắn chéo răng sau, các yếu tố cơ, xương, răng có thể bị ảnh hưởng do các tác động về gen, bẩm sinh, môi trường, chức năng hoặc các thói quen.

Allen và cộng sự khi nghiên cứu sự tác động của xương tới khớp cắn chéo răng sau đã nhận ra hai thay đổi có liên quan đến bất thường này, đó là tỉ lệ độ rộng cung hàm phía sau giữa hàm trên và hàm dưới rất nhỏ, và chiều cao tầng mặt dưới lớn. Tỉ lệ chiều rộng hàm trên-hàm dưới nhỏ có thể là do yếu tố di truyền hoặc môi trường. Hình 12-1 là một ví dụ về yếu tố di truyền, trong đó cả hai chị em sinh đôi cùng trứng đều có cắn chéo răng sau một bên, một bị bên trái, người còn lại bị bên phải.

Bên cạnh những nguyên nhân di truyền và bẩm sinh rất hiếm gặp thì phổ biến hơn cả là các nguyên nhân tại chỗ gây ra tình trạng này, đặc biệt trong giai đoạn răng sữa và răng hỗn hợp. Do vậy, nhiệm vụ của nha sỹ phải thăm khám kỹ và phát hiện sớm các yếu tố bất thường đang ảnh hưởng đến quá trình phát triển khớp cắn của những bệnh nhân trẻ tuổi.

Nhiều báo cáo chỉ ra rằng những thói quen bú nuốt phi dinh dưỡng là một nguyên nhân phổ biến gây ra cắn chéo. Warren và Bishara theo dõi thói quen này trên 372 trẻ từ 4 đến 5 tuổi và thấy rằng những thay đổi về răng và xương nhiều nhất khi thói quen này tiếp tục sau 48 tháng tuổi. Trong số những trẻ trên 48 tháng vẫn còn thói quen mút tay có tới 29% bị cắn chéo răng sau. Số lượng trẻ bị cắn chéo răng sau tăng nhiều hơn nếu sau 24 tháng tuổi vẫn còn thói quen mút ty giả.

 

 

 

 

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *